Trang thiết bị sản xuất linh hoạt được tự động hóa có thể được xem như những bước mở rộng của máy-NC cũng như những trung tâm gia công (Bảng 1).
Tế bào sản xuất linh hoạt
Nếu những trung tâm gia công được kết nối với palét lưu trữ tuần hoàn (quay vòng), người ta gọi đó là tế bào sản xuất linh hoạt. Bộ phận lưu trữ chi tiết cung cấp phôi thô cho máy trong một thời gian giới hạn, thí dụ cho một ca 8 tiếng đồng hổ, và giữ lại những chi tiết hoàn tất. Đa số những máy đơn chiếc hoặc hai máy giống nhau (tế bào đôi) được đưa vào sản xuất hàng loạt với cỡ lô trung bình.
Hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS: Flexible Manuíacturing System)
Nếu nhiều máy sản xuất cùng loại hoặc khác nhau có thể kết nối với nhau qua một hệ thống vận chuyển, chúng hình thành một hệ thống sản xuất linh hoạt. Việc cung cấp chi tiết và dụng cụ bảo đảm chắc chấn rằng dụng cụ, phương tiện kẹp, phôi và chi tiết gia công hoàn tất với đủ sổ lượng, thí dụ: cho 1 ca, được lưu trữ trong máng trữ và kho dựtrữ và có thể được lấy ra, kẹp và đặt trở lại một cách tự động. Tùy theo mỗi loại sản phẩm, thông thường gia công toàn bộ đòi hỏi bổ sung vào trung tâm gia công và trang bị dụng cụ đo những trạm làm sạch ba via (rìa, ba vớ), trạm rửa và trạm lấp ráp. Do chi phí cao nên hệ thống sản xuất linh hoạt ít khi kinh tế.
Đảo sản xuất linh hoạt (Hệ thống sản xuất cục bộ linh hoạt)
Đảo sản xuất linh hoạt gồm có những máy công cụ khác nhau và những trạm làm việc khác được liên kết lỏng lẻo trong phạm vi giới hạn của phân xưởng, để có thể gia công hoàn toàn những chi tiết giống nhau (những phẩn trong một dòng sản phẩm) (Hình 1).
Sự tự động hóa tăng lên trong sản xuất làm giảm đi sự cần thiết việc tham gia của con người trong quy trình gia công. Việc sử dụng máy có thể được tăng lên ở ca 3 ít người. Ngược lại với sựtựđộng hóa cố định, trong tự động hóa linh hoạt, tính linh hoạt cẩn phải đạt được cao nhất để có thể phản ứng nhanh đối với đòi hỏi của thị trường.