Sự bảo dưỡng thuộc vào biện pháp bảo trì phòng ngừa (để phòng). Nhờ sự bảo dưỡng, khả năng chịu hao mòn trong thời gian sử dụng máy hay hệ thống máy được kéo dài thêm (Hình 1). Vì thế việc sản xuất không có sự cố được bảo đảm ở một thời gian dài hơn.
Trong lúc vận hành máy được kiểm soát chất lượng công việc, tức là giám sát chi tiết được hoàn tất với đúng kích thước, quan sát tiếng động bất thường hoặc sự rung cũng như độ rò của ống thủy lực hay ống dầu bôi trơn.
Bảo dưỡng bao gồm tất cả các biện pháp để bảo vệ tình trạng theo đúng quy định của máy hay hệ thống máy (Bảng 1).
Thí dụ: công việc bảo dưỡng ở một trung tâm gia công.
Làm sạch
Tách rời phoi và hạt bẩn bằng que móc phoi hay chồi quét tay ra khỏi khu vực gia công hay buồng máy.
Không nên dùng giẻ có sợi hay giẻ vụn bằng sợi bông để lau chùi. Không nên dùng khí ép, vì với áp suất cao phoi hay hạt bẩn có thể bị ép vào vòng được bít kín của máy.
Bôi trơn
Cho dầu vào, cho mỡ vào hay phun vào đường trượt và đường ray dẫn hướng hoặc hệ thống kẹp dụng cụ. Dùng chất bôi trơn do nhà sản xuất chỉ định.
Bổ sung
Châm thêm cho hệ thống làm nguội bôi trơn và trung tâm tổ hợp bôi trơn cho đường ray dẫn hướng, châm thêm dẩu vào bồn chứa dẩu nơi tổ hợp bôi trơn.
Hiệu chỉnh
Đo và hiệu chỉnh kích cỡ của dụng cụ. Căng lại dây đai hay dây đai răng.
Thay thế
Khi có nhu cầu phải thay phương tiện bảo vệ chổng phoi và phun, ống dẫn quay, đường ống, dây điện, ống dẫn, các gạt và bộ lọc.
Bảo quản
Dụng cụ phải cất giữ trong kho nên dùng lớp bao bọc chống ảnh hưởng môi trường và chống ăn mòn.
Sự tu bổ thường xuyên cho máy được thực hiện do thợ đứng máy khi hết ngày làm việc hay hết ca sản xuất.
Điều cần thiết cho việc bảo dưỡng một cách chuyên nghiệp là cần phải có sự hướng dẫn công việc chính xác.Thí dụ như những hướng dẫn này nằm trong kế hoạch bảo dưỡng và kiểm tra của một cái máy (Hình 1). Trong một kế hoạch bảo dưỡng đính kèm theo đây, chi tiết từng công việc bảo dưỡng sẽ được trình bày (Bảng 1).
Khoảng cách thời gian bảo dưỡng và kiểm tra bình thường là 8,40,160,500,2000 giờ làm việc Điều này có nghĩa, mỗi khi sau 8 giờ làm việc những việc làm tu bổ trong kế hoạch bảo dưỡng bắt buộc phải được thực hiện, sau 40 giờ làm việc những việc làm được bổ sung thêm lên và tiếp tục như thế.
Đặc biệt là những hệ thống thủy lực, dẫn hướng và hệ thống làm nguội bôi trơn đòi hỏi phải được bảo dưỡng thường xuyên. Nhà sản xuất máy chỉ định nên dùng chất bôi trơn nào và chất lỏng thủy lực nào (Bảng 1). Trong những tài liệu hướng dẫn, ký hiệu cho công việc bảo dưỡng được sử dụng, số vị trí được đưa vào kế hoạch bảo dưỡng và kế hoạch bảo trì để có sự sắp xếp thứ tự rõ ràng.
Đặc biệt quan trọng là lựa chọn đúng chất bôi trơn cũng nhưsựtương thích giữa chất bôi trơn và dung dịch bôi trơn làm nguội.
- Kiểm tra chức năng
Sau khi thực hiện những biện pháp bảo dưỡng, máy được đưa vào tình trạng sẵn sàng vận hành. Rào chắn và bảng báo tin để phòng nên gỡ đi, sự cung cấp năng lượng phải được lập lại và thông báo cho nhân viên rằng việc bảo dưỡng đã hoàn tất. Khả năng làm việc của máy phải được chứng minh bằng một sự kiểm tra chức năng.
- Làm hồ sơ và lập biên bản
Những nhà sản xuất máy và hệ thống máy không chấp nhận sự bảo hành cho tổn hại, trong trường hợp thực hiện bảo dưỡng không để ý sự chỉ dẫn bắt buộc đến hạn kỳ bảo dưỡng hoặc dùng chất bôi trơn không đúng. Tất cả những công việc bảo dưỡng được thực hiện và những sự cố xảy ra phải ghi vào số trực hoặc ghi vào danh sách bảo dưỡng (Bảng 2)
Những công việc bảo dưỡng làm xong và những phụ liệu và những phụ tùng thay thế đã dùng phải đưa vào bản danh sách và nhân viên bảo dưỡng ký tên.
Tiếp theo phải làm biên bản nghiệm thu.Trong biên bản này ngoài dữ liệu máy còn nên ghi vào những việc đã thực hiện và thời gian đã dùng cho công việc.
Trong thực tế công việc bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa thường được tiến hành cùng với việc kiểm tra.