Sau khi CPU được khởi động bởi hệ điều hành (BESY), biên bản sao chép về quy trình của đẩu ra (PAA) được ghi lên cổng ra thực của nhóm thiết bị và tình trạng của cổng vào được ghi vào biên bản sao chép về quy trình của cổng vào (PAE) (Hình 4). Khi khởi động hoàn toàn mới, về cơ bản PAA bị xóa.
Sự hình thành các biên bản sao chép vể quy trình (Hình 5) có ưu thế hơn việc tác động trực tiếp lên cổng vào hoặc cổng ra ở chỗ trong thời gian chu kỳ xử lý chương trình, ta lúc nào cũng có hình ảnh không đổi vể tín hiệu xử lý. Khi đang xử lý chương trình, trạng thái tín hiệu trên nhóm thiết bị cổng vào thay đổi, nhưng trạng thái tín hiệu trong ảnh xử lý không thay đổi cho đến khi cập nhật chu kỳ mới của ảnh xử lý.
Khi có yêu cầu nhiều lẩn đối với tín hiệu cổng vào trong chương trình ứng dụng, cẩn phải bảo đảm thông tin không thay đổi và luôn luôn có trong biên bản sao chép về quy trình. Sau khi thiết lập biên bản sao chép về quy trình, chương trình ứng dụng lưu trong môđun tổ chức OBI được xử lý theo thứ tự,có nghĩa từng dòng một. Bộ đếm địa chỉ bắt đầu đếm từ địa chi thấp nhất 0000 và tiếp tục cho đến địa chỉ cuối 0002 (Hình 1). Sau đó toàn bộ chu kỳ của bộ điểu khiển lập trình bắt đẩu lại từ đầu, các cổng ra được cấp tín hiệu trạng thái mới. Nhược điểm của chu kỳ làm việc này là bộ điều khiển lập trình có thể đáp ứng chậm với sự thay đổi tín hiệu cổng vào.